Bảo Hiểm Nhân Thọ là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro mà hiện nay được rất nhiều người lựa chọn. Thực tế cho thấy, việc phát sinh tranh chấp từ việc KHÔNG đóng phí bảo hiểm đúng thời hạn thường xuyên xảy ra. Trong trường hợp Bên Mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm do lỗi của bên Doanh Nghiệp Bảo Hiểm thì hiệu lực của Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có bị mất hiệu lực hay không? Luật Phúc Cầu sẽ giải đáp thắc mắc đó thông qua bài tổng hợp án lệ sau đây.
1. Nguồn án lệ
Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31/3/2009 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm” giữa các bên:
- Nguyên đơn: bà Phạm Thị T;
- Bị đơn: Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Vũ Thị Minh N.
2. Khái quát nội dung án lệ
- Tình huống án lệ:
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ thể hiện người mua bảo hiểm lựa chọn Hình Thức Thu Phí Bảo Hiểm là tại địa chỉ nhà của Bên Mua bảo hiểm. Đến thời hạn đóng phí bảo hiểm và trong thời gian gia hạn đóng phí, nhân viên doanh nghiệp bảo hiểm không đến thu phí của người mua bảo hiểm.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định người mua bảo hiểm không có lỗi trong việc chưa đóng phí. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không bị mất hiệu lực vì lý do bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm trong thời hạn theo thỏa thuận.
3. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ
Điều 23 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010 – Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm.
4. Tóm tắt nội dung vụ án
- Nguyên Đơn bà Phạm Thị T trình bày:
Chồng của bà là Trần Hữu L có đăng ký mua bảo hiểm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P. Chồng của bà bị tai nạn chết. Theo hợp đồng bà là người thụ hưởng. Nay bà yêu cầu Bị đơn trả số tiền bảo hiểm là 300 triệu đồng và tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản tính từ tháng 8/2005 đến nay là 126 triệu đồng, tổng cộng là 426 triệu đồng.
- Bị Đơn Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P có đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Quốc T trình bày:
Ông L phải nộp phí bảo hiểm lần II vào ngày 24/6/2005, sau đó được gia hạn thêm hai tháng nhưng vẫn không nộp tiền. Ông L chết ngày 27/8/2005 là thời điểm hợp đồng bảo hiểm đã mất hiệu lực 03 ngày. Vì thế Bị đơn không chấp nhận trả tiền theo yêu cầu của Nguyên đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị Minh N trình bày:
Bà là đại lý của Bị đơn, đã bán bảo hiểm cho ông L. Bà thỏa thuận với ông L là đến kỳ thu phí bảo hiểm, bà sẽ trực tiếp thu phí tại nhà ông L. Nhưng đến kỳ hạn cuối thu tiền bà phải đi học chính trị ở tỉnh nên không thu phí được. Việc không nộp tiền được là do khách quan, nên bà yêu cầu Bị đơn phải trả tiền bảo hiểm cho Nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2008/DS-ST ngày 21/8/2008 của TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị T đòi Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng.
- Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.890.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 6.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 2185 ngày 09/6/2006 của Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T còn phải nộp 1.890.000 đồng.
Án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 01/9/2008 bà Phạm Thị T kháng cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm, Nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết việc kiện.
Bà T trình bày yêu cầu kháng cáo là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà buộc Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ P trả tiền bảo hiểm và tiền lãi do chậm thanh toán là 426.000.000 đồng. Với lý do vì người của công ty không đến thu tiền bảo hiểm chứ không phải bà không đóng. Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà T.
Ông Nguyễn Quốc T đại diện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cùng luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp đề nghị Hội Đồng xét xử y án sơ thẩm.
5. Nội dung án lệ
Nội dung án lệ trích từ đoạn 4, 7, 8 phần Nhận định của Tòa án trong Bản án dân sự phúc thẩm số 538/2009/DS-PT ngày 31/3/2009 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:
“[4] Căn cứ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ (bút lục 15 – 17) thể hiện địa chỉ để Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P thu phí là tại nhà số 231 ấp 3, xã B, huyện G, tỉnh Bến Tre là nhà của ông L. Điều này cũng phù hợp với lời khai của bà N là đại lý bán bảo hiểm và thu phí của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.
[7] Xét ông L đã ký hợp đồng bảo hiểm thông qua hình thức hồ sơ yêu cầu bảo hiểm nhân thọ với mức bảo hiểm là 300.000.000 đồng, việc ông L chưa đóng phí đợt 2 như đã phân tích ở trên là không phải lỗi của ông L do đó yêu cầu kháng cáo của bà T buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P phải chi trả tiền bảo hiểm khi ông L tử vong do tai nạn là có cơ sở để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P cho rằng ông L không đóng phí bảo hiểm đợt 2 hạn chót là ngày 24/8/2005 và ông L đã chết ngày 27/8/2005, như vậy hợp đồng bảo hiểm của ông L đã hết hiệu lực là không có cơ sở. Bởi lẽ như đã phân tích ở trên, lý do ông L không đóng phí bảo hiểm là do nhân viên công ty không đến thu phí. Điều này cũng thể hiện rõ tại trang 5 quyển những thông tin khách hàng cần biết nêu rõ việc thu phí tại nhà gồm có thu phí hàng quý, hàng 6 tháng, hàng năm, hoặc cùng một địa chỉ có từ 2 hợp đồng trở lên, phù hợp với trường hợp của ông L đã mua 03 hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P là của ông L, bà T, bà H. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P, cũng như lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Bảo hiểm nhân thọ P.”
6. Sự cần thiết của án lệ
Án lệ số 23 đã giải quyết một số vấn đề pháp lý liên quan đến đóng phí bảo hiểm như địa điểm đóng phí bảo hiểm, phân loại nguyên nhân không đóng phí bảo hiểm đúng hạn và hậu quả của việc đó. Án lệ xử lý theo hướng nếu bên mua bảo hiểm không đóng phí bảo hiểm đúng hạn do lỗi của Doanh nghiệp bảo hiểm thì xác định bên mua không có lỗi và hiệu lực của hợp đồng sẽ không bị mất đi. Hướng xử lý này hoàn toàn phù hợp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người mua bảo hiểm.
7. Trường hợp tương tự áp dụng án lệ
Án lệ số 23 có thể được áp dụng trường hợp nhân viên mà Doanh nghiệp bảo hiểm giao nhiệm vụ đến thu phí bảo hiểm nhưng họ không thực hiện đúng. Trường hợp Doanh nghiệp bảo hiểm thay đổi địa chỉ mà chưa kịp thông báo cho khách hàng dẫn đến việc khách hàng không thể đóng phí đúng hạn thì xác định là do lỗi của bên Doanh nghiệp bảo hiểm nên cũng cần áp dụng nội dung án lệ để giải quyết.