Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản hiện nay không phải là hiếm. Thực tế, có nhiều lý do khiến người vay không trả nợ cho bên cho vay, chẳng hạn như đến hạn mà không có khả năng chi trả do dịch bệnh covid kéo dài, công việc bấp bênh, thất nghiệp… hoặc cố tình không trả. Theo quy định pháp luật hiện hành, bên vay phải có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay khi đến hạn. Tuy nhiên, nếu bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả tiền đó thì có bị đi tù không? Bài viết sau đây của Luật Phúc Cầu sẽ khái quát quy định pháp luật xoay quanh vấn đề này cho Qúy khách hàng.
Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật dân sự năm 2015 – BLDS;
- Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) – BLHS.
Vay tiền không trả, xử lý như thế nào?
Vay tài sản là vấn đề dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2015, trong đó các bên thỏa thuận với nhau về số tiền vay, lãi suất (nếu có), thời hạn trả nợ, quyền và nghĩa vụ các bên; miễn các thỏa thuận đó không trái với quy định của pháp luật và không trái với đạo đức thì đều sẽ được pháp luật thừa nhận
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự quy định “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Như vậy, trả nợ khi đến hạn là nghĩa vụ của người đi vay. Nếu đến hạn trả nợ nhưng bên vay không trả, có 02 trường hợp xảy ra như sau:
Trường hợp 1: Việc không trả nợ do không có khả năng chi trả
Điều 466 BLDS 2015 quy định cả bên vay và bên cho vay đều phải thực hiện theo đúng thỏa thuận. Trường hợp đến hẹn trả nợ mà bên vay không trả, hoặc trả không đủ thì các bên có thể tiếp tục thương lượng thỏa thuận về việc gia hạn thời gian trả tiền và bên cạnh đó là lãi suất quá hạn.Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được mà bên vay không có dấu hiệu bỏ trốn hay dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Đồng thời bên vay cũng tỏ thiện chí muốn trả nợ nhưng do hoàn cảnh khó khăn (dịch bệnh covid, thất nghiệp,…nên chưa thể trả tiền một lần), hứa hẹn sẽ trả nhưng theo lộ trình,… thì đây được xem là tranh chấp dân sự, bên cho vay có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong trường hợp này, để đòi lại tiền, bên cho vay sẽ phải nộp đơn khởi kiện kèm theo các bằng chứng, chứng cứ chứng minh việc vay nợ (như tin nhắn vay mượn, hợp đồng/giấy vay tiền…) gửi tới Tòa án có thẩm quyền nơi bị đơn cư trú. Tòa án sẽ xem xét và yêu cầu bên vay tiền thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Trong trường hợp sau khi đã có bản án quyết định của tòa mà bên vay không tự nguyện thực hiện bản án thì bên cho vay có thể yêu cầu bên thi hành án sử dụng các biện pháp cưỡng chế để buộc bên vay phải thực hiện nghĩa vụ. Theo đó, có hai trường hợp như sau:
Bên cho vay có tài sản đủ để trả nợ: Cơ quan thi hành án sẽ tiến hành kê biên tài sản để lấy tiền trả nợ cho bên cho vay. Chẳng hạn: kê biên đất đai, nhà cửa, xe cộ, phong tỏa tiền gửi tiết kiệm trong ngân hàng hay cưỡng chế trừ dần vào thu nhập hàng tháng để lấy tiền trả nợ cho bên cho vay, khi đó việc trả nợ được đảm bảo nhưng thời gian thu hồi nợ sẽ lâu và số tiền bị chia nhỏ, số tiền nợ càng lớn thì càng khó thu hồi.
Bên vay không có bất cứ tài sản gì: Trường hợp bên vay tiền không có bất cứ tài sản nào có thể kê biên nhằm chi trả khoản nợ thì đây sẽ được xác định là rủi ro của bên cho vay. Bên cho vay phải đợi đến khi nào bên vay có tiền thì mới có thể trả nợ cho mình.
Trường hợp 2: Việc không trả nợ do cố tình không trả
Như đã phân tích ở trên, trường hợp bên vay không trả nợ do không có khả năng chi trả sẽ được giải quyết theo tranh chấp dân sự thì trường hợp bên vay cố tình dùng các thủ đoạn gian dối để chối bỏ hay để trốn nợ thì đây có thể được xem là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp này, tùy theo mục đích và thủ đoạn mà bên vay sử dụng để trốn tránh việc trả nợ mà có thể xem xét vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS 2015.
- Đối với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS:
Có thể phạm vào Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu bên vay dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời hạn trả nợ có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hay trường hợp bên vay đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Mức hình phạt tương ứng với trị giá của khoản vay theo quy định tại Điều 175 BLHS 2015:
– Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với khoản vay trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
– Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho những trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau:
+ Có tổ chức
+ Có tính chất chuyên nghiệp
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
+ Tái phạm nguy hiểm
– Phạt từ 05 năm đến 12 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
– Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên.
– Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS:
Có thể phạm vào Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu bên vay đã có ý định chiếm đoạt số tiền vay ngay từ đầu với các thủ đoạn như nói dối, hoặc tạo dựng một hoàn cảnh giả nhằm chiếm đoạt số tiền của bên cho vay. Mức hình phạt tương ứng với trị giá của khoản vay theo quy định tại Điều 174 BLHS 2015:
– Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với khoản vaytrị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hay trường hợp tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
– Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng cho những trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết sau:
+ Có tổ chức
+ Có tính chất chuyên nghiệp
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
+ Tái phạm nguy hiểm
– Phạt từ 07 năm đến 15 năm nếu chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
– Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
– Ngoài ra, người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
Tóm lại, để xem xét việc vay tiền không trả có bị đi tù hay không còn phải căn cứ vào ý chí, mục đích của bên vay tiền. Trong trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ do kinh tế khó khăn, vỡ nợ, thất nghiệp,…mà vẫn tỏ thiện chí trả nợ, hứa hẹn sẽ trả và không bỏ trốn thì bên cho vay có thể tiến hành khởi kiện tại Tòa án để đòi lại số tiền cho vay của mình, đây được xem là tranh chấp trong lĩnh vực dân sự và bên vay hoàn toàn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (không bị đi tù). Còn trong trường hợp bên vay cố tình không trả chẳng hạn như tẩu tán tài sản, khóa số điện thoại, bỏ trốn khỏi địa phương…hoặc bên cho vay có căn cứ cho rằng bên vay có tài sản đủ điều kiện trả nợ nhưng không trả thì có thể trình báo hoặc tố cáo tội phạm tới cơ quan công an để được điều tra giải quyết do những hành vi có thể được xem là tội phạm theo quy định của BLHS 2015 (có thể bị đi tù).
Qua bài viết trên, Luật Phúc Cầu đã khái quát một số quy định của pháp luật xoay quanh việc vay tiền không trả thì bị đi tù không. Trường hợp cần tư vấn pháp lý về các vấn đề phát sinh đối với hợp đồng vay, hỗ trợ soạn đơn khởi kiện hay Luật sư tranh tụng tại Tòa án, Quý khách có thể phản ánh tới địa chỉ pclawfirm.vn@gmail.com hoặc gọi đến Tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng/./