Mỗi doanh nghiệp đều có những bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ cần được bảo mật bởi nó là sự đúc rút từ cả quá trình xây dựng và phát triển, đồng thời là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, thỏa thuận với người lao động về việc không làm việc cho đối thủ cạnh tranh ngày càng được nhiều doanh nghiệp áp dụng nhằm tránh việc bị tiết lộ bí mật kinh doanh, công nghệ. Vậy thỏa thuận này có được xem là hợp pháp? Bài viết dưới đây của Luật Phúc Cầu sẽ giải đáp thắc mắc trên cho Quý khách hàng
1. Cơ sở pháp lý:
- Hiến pháp năm 2013;
- Bộ luật lao động năm 2019;
- Luật việc làm năm 2013;
2. Thỏa thuận không làm việc cho đối thủ cạnh tranh có hợp pháp?
Khoản 1 Điều 35 Hiến pháp 2013 có quy định: “Mọi công dân đều có quyền lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật công nhận.
Trên cơ sở đó, theo khoản 1 Điều 10 Bộ luật lao động 2019 quy định về quyền làm việc của người lao động, cụ thể:
“1. Được tự do lựa chọn việc làm, làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm.
…”
Đồng thời, khoản 6 Điều 9 Luật việc làm 2013 cũng nêu rõ:
“Nghiêm cấm hành cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động”.
Đối chiếu với những quy định trên, người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc cho mình ở bất cứ đâu mà không ai được phép gây cản trở, gây khó khăn hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng lao động, cụ thể khoản 2 Điều 21 Bộ luật lao động năm 2019 quy định như sau:
“2. Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bảo vệ bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp vi phạm”
Như vậy, chỉ khi người lao động làm việc trực tiếp liên quan đến bí mật kinh doanh, công nghệ thì người sử dụng lao động mới có quyền thỏa thuận với người lao động bằng văn bản về việc không làm việc cho đối thủ trong một thời gian nhất định để đảm bảo người lao động không tiết lộ bí mật kinh doanh, công nghệ của doanh nghiệp mình cho đối thủ cạnh tranh.
Mặc dù, cam kết này đã xâm phạm đến quyền tự do lựa chọn nơi làm việc của người lao động. Tuy nhiên, khi người lao động tự nguyện ký vào bản cam kết không làm việc cho công ty đối thủ đã thể hiện ý chí tự ràng buộc của họ đối với điều khoản đã cam kết đồng thời cũng chính họ đã từ bỏ quyền tự do làm việc của mình.
Do đó, nếu người lao động và người sử dụng lao động đều tự nguyện ký vào bản cam kết không làm việc cho đối thủ cạnh tranh thì đây được xem là thỏa thuận hợp pháp. Trường hợp người lao động vi phạm cam kết thì phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận.
Áp dụng thực tiễn:
Hiện nay, việc công nhận thỏa thuận không làm việc cho đối thủ cạnh là vấn đề đang gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, đã có trường hợp Tòa án công nhận bản án về vấn đề này:
Ngày 12/6/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT công nhận hiệu lực của quyết định của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, đứng về phía lợi ích của người sử dụng lao động.
Theo quyết định này, Hội đồng thẩm phán đã chấp nhận yêu cầu của người sử dụng lao động, tuyên buộc người lao động cũ phải thanh toán một khoản tiền bồi thường đã được ấn định sẵn trong thỏa thuận do người lao động vi phạm cam kết không được làm việc cho các doanh nghiệp đối thủ trong vòng 12 tháng sau khi nghỉ việc.
Phán quyết của Hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm và cũng được tòa án có thẩm quyền thừa nhận, các bên không có quyền khiếu nại, kháng cáo, kháng nghị.
Đây được xem là một tiền lệ về công nhận tính hợp pháp của thỏa thuận không làm việc cho đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, quyết định này cũng chỉ mang tính chất tham khảo, không phải đều áp dụng cho mọi vụ án. Ngoài ra, cũng chưa có văn bản nào chính thức thừa nhận giá trị pháp lý của thỏa thuận này.
KẾT LUẬN: Thỏa thuận không làm việc cho đối thủ cạnh tranh được xem là hợp pháp khi người lao động trực tiếp làm việc liên quan đến bí mật kinh doanh, công nghệ và hai bên tự nguyện ký kết vào văn bản thỏa thuận này. Vì vậy, để tránh những tranh chấp pháp lý và rủi ro sau này, người lao động cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đặt bút ký vào thỏa thuận không làm việc cho đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp.