Hiện nay, nhiều cặp vợ chồng đang phải đối diện với tình trạng vô sinh, hiếm muộn trở nên phổ biến nên việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn.
Vậy để biết được việc mang thai hộ với mục đích nhân đạo có trái pháp luật hay không, làm sao để xác định được cha, mẹ của đứa bé. Và những điều kiện cần có khi mang thai hộ là như thế nào?
Bài viết dưới đây của Luật Phúc Cầu sẽ cung cấp thông tin cho Quý Khách hàng liên quan về vấn đề trên!
Căn cứ pháp lý:
– Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
– Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
1. Thế nào là mang thai hộ với mục đích nhân đạo?
Căn cứ theo Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
“22. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.”
Như vậy, việc mang thai hộ với mục đích nhân đạo trên cơ sở người phụ nữ tự nguyện mang thai. Đồng thời, việc thỏa thuận này được xác lập với nhau bằng văn bản và không nhằm mục đích thương mại.
Việc mang thai hộ với mục đích nhân đạo được thực hiện bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để đi thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
2. Điều kiện để mang thai hộ với mục đích nhân đạo
Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đáp ứng được những điều kiện nhất định theo quy định tại Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
– Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Sự tự nguyện ở đây hoàn toàn xuất phát từ ý chí của cả hai bên: người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ mà không bị đe dọa, ép buộc, lừa dối bởi bất kỳ bên thứ ba nào.
– Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Pháp luật còn quy định cụ thể điều kiện đối với từng bên trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:
- Đối với vợ chồng nhờ người mang thai hộ.
– Phải là cặp vợ chồng hợp pháp. Do đó, người phụ nữ độc thân hay các cặp đôi đồng tính, song tính và chuyển giới cũng không được phép nhờ mang thai hộ do pháp luật vẫn chưa thừa nhận hôn nhân của họ là hợp pháp.
– Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Theo quy định này thì mang thai hộ là giải pháp cuối cùng để có thể có con. Quy định này đặt ra nhằm tránh việc nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi, hạn chế việc lợi dụng vì mục đích thương mại khi người phụ nữ vẫn còn khả năng làm mẹ.
– Vợ chồng đang không có con chung: trong trường hợp nhờ mang thai hộ mà thai bị hỏng, bị sẩy, đứa trẻ sinh ra bị chết,… thì sẽ tiếp tục được nhờ mang thai hộ. Trường hợp cặp vợ chồng đã có con chung nhưng con đã chết và đáp ứng đủ các điều kiện khác theo quy định về quyền nhờ mang thai hộ thì vẫn có quyền nhờ mang thai hộ. Trường hơp cặp vợ chồng đã có một con mà con mắc bệnh Down, các bệnh liên quan đến thần kinh, bệnh hiểm nghèo, hoặc bị dị tật thì không có quyền nhờ mang thai hộ.
– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý để đảm bảo họ hiểu rõ bản chất của vấn đề mang thai hộ, tránh xảy ra sai sót cũng như tranh chấp trong tương lai vì thiếu hiểu biết. Cụ thể:
Nội dung này được quy định tại khoản 1 Điều 15, Điều 16 và khoản 1 Điều 17 của Nghị định 10/2015/NĐ-CP. Vợ chồng nhờ mang thai hộ phải nhận thức được đầy đủ các vấn đề liên quan đến sức khỏe, pháp lý và tâm lý.
+Về y tế, vợ chồng nhờ mang thai hộ cần được tư vấn các phương án khác ngoài việc mang thai hộ hoặc xin con nuôi; quá trình thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai hộ; các khó khăn thực hiện mang thai hộ; chi phí điều trị cao; khả năng đa thai; tỷ lệ thành công của kỹ thuật mang thai hộ có thể rất thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi, khả năng em bé bị dị tật và có thể bị bỏ thai,…
+Về pháp lý, vợ chồng nhờ mang thai hộ cần được tư vấn về việc xác định cha, mẹ, con; điều kiện mang thai hộ; thỏa thuận về mang thai hộ; quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình mang thai hộ và sau khi thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; giải quyết tranh chấp liên quan đến việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,…
+Về tâm lý, vợ chồng nhờ mang thai hộ cần được tư vấn các vấn đề về tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản thân đứa trẻ sau này; người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé sau sinh; các hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của đứa trẻ; tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con, thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang thai hộ có thể gây tâm lý căng thẳng, mệt mỏi,…
Ý nghĩa của điều kiện này là đảm bảo chắc chắn rằng, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã chuẩn bị sẵn sàng mọi mặt và mong muốn thực hiện mang thai hộ, tránh xảy ra trường hợp ngoài ý muốn trong quá trình mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
- Đối với người được nhờ mang thai hộ
– Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Người này được hiểu là bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ (theo quy định tại khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP)
– Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần. Việc đã từng sinh con sẽ giúp người phụ nữ chuẩn bị về mặt tâm lý, tinh thần, cũng như có kinh nghiệm, kỹ năng trong việc chăm sóc bản thân và thai nhi nhằm đảm bảo thực hiện việc mang thai hộ. Quy định chỉ mang thai hộ một lần nhằm tránh tình trạng trục lợi để đạt được mục đích thương mại.
– Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Pháp luật chưa có quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp, có thể suy đoán đó là độ tuổi sinh đẻ nói chung từ 20 tuổi đến 35 tuổi, lúc này cơ thể người phụ nữ đã phát triển đầy đủ về cả tâm sinh lý cho việc làm mẹ. Điều kiện có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền không chỉ nhằm đảm bảo cho sức khỏe người nhận mang thai hộ mà còn đảm bảo cho sức khỏe của đứa trẻ, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra.
– Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng. Trong mối quan hệ giữa người phụ nữ mang thai hộ và người chồng là mối quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vì vậy, các vấn đề liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của một trong hai người thì cần phải có sự đồng thuận của người còn lại.
– Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
+ Các nội dung y tế được tư vấn như các nguy cơ, tai biến có thể xảy ra khi mang thai như sẩy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết, khả năng đa thai, em bé bị dị tất phải bỏ thai,… Việc tư vấn này nhằm cung cấp những thông tin về nguy cơ, tai biến ảnh hưởng tới sức khỏe mà người nhận mang thai có thể mắc phải.
+ Liên quan tới nội dung pháp lý được tư vấn là những hậu quả pháp lý cơ bản và quan trọng nhất là mối quan hệ phát sinh hay việc xác định cha, mẹ, con giữa con sinh ra và các bên liên quan.
+ Người nhận mang thai hộ cũng cần được tư vấn về tâm lý, tình cảm gia đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ, tâm lý đối với con ruột của mình.
3. Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Theo Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì:“Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”.
Theo đó, về mặt pháp lý, vợ chồng nhờ mang thai hộ sẽ trở thành cha mẹ của người con kể từ khi con được sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Pháp luật cũng quy định người mang thai hộ và chồng của người mang thai hộ phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
Tuy nhiên, trên thực tế, không ít trường hợp người mang thai hộ sau khi sinh con thì không chịu giao con cho vợ chồng nhờ mang thai hộ, dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Theo quy định tại khoản 5 Điều 98 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con cho mình.
Bên cạnh đó, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Lúc này, bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình.
Từ những phân tích trên có thể thấy, pháp luật đã ghi nhận con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra, không phải con của người mang thai hộ. Theo đó, dù không trực tiếp sinh ra con nhưng về mặt pháp luật, vợ, chồng nhờ mang thai hộ sẽ là cha, mẹ của con được sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đồng thời, vợ chồng nhờ mang thai hộ cũng sẽ có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con theo quy định của pháp luật.
Trường hợp trong bài viết có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bài viết khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ pclawfirm.vn@gmail.com hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng./.