Trong một vụ án hình sự, việc có đơn bãi nại đóng vai trò vô cùng quan trọng để xem xét miễn, giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Việc rút yêu cầu khởi tố có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể do bên gây thiệt hại đã khắc phục hậu quả, hai bên đã tự thoả thuận, thương lượng với nhau… Vậy khi có đơn bãi nại thì người phạm tội có tiếp tục bị khởi tố? Bài viết dưới đây của Luật Phúc Cầu sẽ cung cấp cho Quý khách hàng các thông tin liên quan về vấn đề trên
Cơ sở pháp lý:
- Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (BLHS 2015, SĐBS 2017);
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2021 (BLTTHS).
1. Đơn bãi nại là gì?
Đơn bãi nại không phải là một thuật ngữ pháp lý, đây là khái niệm để chỉ loại đơn của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại là người dưới 18 tuổi, người bị hại có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc người bị hại đã chết với nội dung: Rút lại yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, nghĩa là không còn tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Vậy nên, có thể hiểu làm đơn bãi nại là quyền của người bị hại hay người đại diện của họ.
Trong một vụ án hình sự mà có người bị hại, việc bị hại làm đơn bãi nại là một điều có lợi đối với người phạm tội (người đang bị tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc những người có liên quan khác trong vụ án). Việc rút lại yêu cầu khởi kiện vụ án có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, đó có thể là do sợ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm nếu vụ án được điều tra làm rõ hoặc các lợi ích kinh tế của chính người bị hại hoặc bên bị hại, bên gây thiệt hại tự thoả thuận được với nhau.
2. Các trường hợp được áp dụng đơn bãi nại
Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Như vậy, khi có đơn bãi nại của người bị hại thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người phạm tội thực hiện thuộc các tội sau:
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 134 BLHS BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Khoản 1 Điều 135 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Khoản 1 Điều 136 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Khoản 1 Điều 138 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Khoản 1 Điều 139 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội hiếp dâm (Khoản 1 Điều 141 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội cưỡng dâm (Khoản 1 Điều 143 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội làm nhục người khác (Khoản 1 Điều 155 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội vu khống (Khoản 1 Điều 156 BLHS 2015 SĐBS 2017);
- Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Khoản 1 Điều 226 BLHS 2015 SĐBS 2017);
Thứ hai, Đơn bãi nại phải theo yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Thứ ba, Việc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại hoàn toàn phải xuất phát từ ý chí tự nguyện, không bị bất kỳ một sự cưỡng ép hay đe doạ nào.
Tóm lại, đơn bãi nại tự nguyện, hợp pháp của người yêu cầu khởi kiện chỉ có hiệu lực làm đình chỉ vụ án trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng đối với những vụ án hình sự về các tội danh được liệt kê trên. Nói cách khác, không phải trong mọi trường hợp có đơn bãi nại thì bên gây thiệt hại đều không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cần lưu ý rằng, Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức
3. Trường hợp có đơn bãi nại nhưng không được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
Như đã phân tích ở trên, trừ những tội danh được quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS, những tội danh khác dù có đơn bãi nại của người bị hại thì người phạm tội vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, không phụ thuộc vào sự đồng ý hay không đồng ý của chính người bị hại. Trong trường hợp này việc rút đơn bãi nại chỉ được xem là một tình tiết giảm nhẹ cho người phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 SĐBS 2017
Chẳng hạn, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 BLHS 2015 SĐBS 2017 không thuộc các trường hợp liệt kê theo quy định, do đó đơn bãi nại trong trường hợp này chỉ xem là một tình tiết giảm nhẹ.
Như vậy, để xem xét đối tượng có được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự không chỉ phụ thuộc vào yêu cầu của bị hại mà còn cần phải dựa vào căn cứ quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) có thuộc các tội danh quy định tại Khoản 1 Điều này để xem xét.
Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ pclawfirm.vn@gmail.com hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng./.