Khi nam và nữ kết hôn thì giữa họ sẽ tồn tại nhiều nghĩa vụ chung về tài sản, bên cạnh đó cũng có những nghĩa vụ riêng. Việc xác định trách nhiệm đối với khoản nợ mà một trong hai người xác lập là một vấn đề rất quan trọng. Có phải trường hợp nào vợ/chồng vay nợ thì người kia đều phải chịu trách nhiệm chung hay không? Luật Phúc Cầu sẽ giúp Quý khách hàng giải đáp thắc mắc trên thông qua bài viết sau đây.
-
Cơ sở pháp lý
+ Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
1. Trường hợp vợ/chồng phải cùng nhau trả nợ
Nợ chung trong thời kỳ hôn nhân được hiểu là những khoản nợ phát sinh từ giao dịch của vợ chồng hoặc những khoản nợ đứng tên một trong hai bên vợ hoặc chồng sử dụng vì mục đích chung cho gia đình, con cái. Theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như sau:
“1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3.Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4.Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Do đó, nợ chung của vợ chồng không nhất thiết là cả hai phải cùng nhau thực hiện giao dịch mà có thể phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng vay nợ để thực hiện những công việc sau, thì người còn lại cũng phải liên đới chịu trách nhiệm:
- Khoản nợ đó nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, ví dụ như nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình như: ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe các thành viên trong gia đình; việc học hành của con cái; tiền đám cưới, đám ma…(căn cứ khoản 20, Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014)
- Khoản nợ do một bên vợ (hoặc chồng) là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của người kia để thực hiện giao dịch. (xem thêm căn cứ xác lập đại diện giữa vợ và chồng được quy định tại điều 24 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 )
- Các khoản nợ phát sinh từ những giao dịch dân sự do vợ chồng cùng nhau tiến hành việc thỏa thuận xác lập;
(Giao dịch hợp pháp ở đây được hiểu như là Hợp đồng vay tài sản: tiền, vàng, ngoại tệ… hoặc Giấy vay tiền không phân biệt viết tay hay đánh máy do người có đủ năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện)
- Khoản nợ đó nhằm mục đích bồi thường thiệt hại do các hành vi của Con Chung gây ra mà căn cứ theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
- Do hai vợ chồng thỏa thuận thống nhất với nhau về việc cùng nhau thực hiện nghĩa vụ trả nợ;
- Các nghĩa vụ khác nếu có theo quy định của các luật có liên quan.
Như vậy, nếu khoản nợ đó chỉ đứng tên một mình vợ hoặc chồng nhưng với mục đích nêu trên thì người còn lại cũng liên đới chịu trách nhiệm trả nợ theo Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể như sau:
“1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.”
Ngoài ra, căn cứ quy định tại Điều 60 Luật HNGĐ, dù hai vợ chồng ly hôn mà có phát sinh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì khoản nợ đó với bên thứ ba vẫn có hiệu lực. Theo đó, cả hai vợ chồng vẫn phải có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bên thứ ba. Hai bên có thể thỏa thuận cùng với chủ nợ để giải quyết khoản nợ này. Nếu không thỏa thuận được thì khi Tòa án giải quyết sẽ xem đó là khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân nên nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đó sẽ chia đôi.
2. Trường hợp vợ/ chồng phải tự trả khoản nợ do một bên xác lập
Tuy nhiên, trên thực tế, có những khoản nợ do vợ hoặc chồng xác lập mà người còn lại không có nghĩa vụ phải trả. Điều 45 Luật HNGĐ 2014 quy định về nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng như sau:
“1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.”
Theo đó, các trường hợp không phải liên đới chịu trách nhiệm bao gồm:
- Mục đích của việc vay nợ không nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Cụ thể là vợ/chồng vay tiền với mục đích cá nhân, KHÔNG thuộc các trường hợp quy định tại Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
- Hai vợ chồng có thỏa thuận với nhau về việc khoản vay đó sẽ do một bên chịu trách nhiệm trả nợ;
- Khoản nợ phát sinh từ những hành vi vi phạm pháp luật của vợ/chồng;
- Khoản nợ đó phát sinh trước thời kỳ hôn nhân.
- Đối với các khoản nợ riêng, bên xác lập có nghĩa vụ phải trả mà không được phép sử dụng tài sản chung của vợ chồng để thanh toán.
Tóm lại, không phải mọi trường hợp vợ chồng đều phải cùng nhau trả nợ. Tùy vào mục đích vay cũng như thỏa thuận và các yếu tố khác để có thể xác định nghĩa vụ trả nợ này có thuộc trường hợp phải liên đới chịu trách nhiệm hay không, nếu không thì người vay phải tự dùng tài sản của mình để thanh toán khoản nợ đó.
Trên đây là những vấn đề về Trách nhiệm của vợ/ chồng trong trường hợp một bên vay nợ. Để được tư vấn chi tiết hơn và giải đáp các thắc mắc trong trường hợp bài viết có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bài viết khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ pclawfirm.vn@gmail.com hoặc Tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng /./