TRƯỜNG HỢP NÀO KHÔNG ĐĂNG KÝ KẾT HÔN MÀ VẪN CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG?

Hiện nay, pháp luật chỉ công nhận quan hệ vợ chồng hợp pháp khi hai bên đáp ứng về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có trường hợp pháp luật công nhận là vợ chồng khi không đăng ký kết hôn. Bài viết dưới đây của Luật Phúc Cầu sẽ cung cấp thông tin cho Quý khách hàng về vấn đề này:

Cơ sở pháp lý:

  • Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
  • Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn về Luật Hộ tịch;
  • Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn Nghị quyết 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình do Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ Tư pháp ban hành;

 

Pháp luật hiện hành quy định về công nhận quan hệ vợ chồng hợp pháp:

Theo khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

“…

5. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.”

Trong đó, Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về Điều kiện kết hôn như sau:

“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.”

Và khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

“Điều 9. Đăng ký kết hôn

1. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch.

Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.

…”

Như vậy, đối chiếu với những quy định trên, chỉ khi hai bên đáp ứng điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì pháp luật mới công nhận quan hệ vợ chồng hợp pháp, đồng thời được hưởng những quyền lợi theo quy định.Trường hợp hai bên chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Tuy nhiên, cũng theo khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:

“Điều 131. Điều khoản chuyển tiếp

1. Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết.

…”

Do đó, căn cứ theo quy định trên, quan hệ vợ chồng có được pháp luật công nhận khi nam, nữ sống chung với nhau được xác định theo các thời điểm như sau:

1. Nam nữ chung sống như vợ chồng không kết hôn trước ngày 03/01/1987:

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân đối với trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nhưng không đăng ký kết hôn được quy định tại điểm d mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 như sau:

“2. Đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003; do đó, cần phân biệt như sau:

Được coi là nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;

– Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;

– Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;

– Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.

Thời điểm nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”.

Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 44 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP quy định:

“2. Đối với các trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 18 của Luật hộ tịch”.

Như vậy, quan hệ hôn nhân trước ngày 03/01/1987 dù không đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng. Khi đó, nam nữ được khuyến khích và tạo điều kiện đăng ký kết hôn.

2. Nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến nay

Theo Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì đối với trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực) mà có đủ điều kiện kết hôn, nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng, thì theo quy định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 35 của Quốc hội họ có nghĩa vụ đăng ký kết hôn kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003. Sau ngày 01/01/2003 mà họ vẫn không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng của họ.

Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 01/01/2001 đến nay mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận quan hệ vợ chồng là hợp pháp.

KẾT LUẬN: Như vậy, chỉ những trường hợp nam, nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì mới được pháp luật HNGĐ công nhận là vợ chồng hợp pháp dù họ không có đăng ký kết hôn. Sau thời điểm ngày 01/01/2001 tất cả các trường hợp sống chung với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn thì đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng.

 

Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ mail pclawfirm.vn@gmail.com hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *