Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp tài sản”. Vậy nếu dùng vũ lực tấn công người khác với mục đích không trả số tiền mà mình có nghĩa vụ phải thanh toán thì có bị truy cứu về tội “Cướp tài sản” hay không? Luật Phúc Cầu sẽ giải đáp thông qua bài tổng hợp án lệ sau đây.
1. Nguồn án lệ
Quyết định giám đốc thẩm số 20/2018/HS-GĐT ngày 15/10/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Cướp tài sản” đối với Bị cáo: Lê Xuân Q, sinh năm 1993.
2. Khái quát nội dung án lệ
- Tình huống án lệ:
Bị cáo có hành vi dùng vũ lực tấn công Bị hại, làm Bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm mục đích không trả số tiền mà Bị cáo có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị hại.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp tài sản”.
3. Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ
Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 – Tội cướp tài sản.
(tương ứng với Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015).
4. Tóm tắt nội dung vụ án
Khoảng 22h ngày 19/01/2015, Lê Xuân Q, Trần Xuân L, Nguyễn Văn L, Trương Sỹ T, Hà Thị Thu H và các đối tượng H1, Bin (không rõ lai lịch) đến hát tại phòng 203 của quán Karaoke M thuộc phường H, quận L, TP. Đà Nẵng, do anh Nguyễn Thành H làm chủ. Đến khoảng 23h30 phút cùng ngày thì mọi người về trước, Q và Nguyễn Văn L ở lại tính tiền. Anh Võ Minh T được anh Nguyễn Thành H giao quản lý tại quán, kiểm tra phòng 203 và viết phiếu thanh toán hết 408.000 đồng. Lê Xuân Q đưa 208.000 đồng và 01 điện thoại di động cho anh Võ Minh T và nói hôm sau quay lại thanh toán số tiền 200.000 đồng còn thiếu và chuộc lại điện thoại, nhưng anh Võ Minh T không chấp nhận. Lúc này Trương Sỹ T điều khiển xe quay lại chở Q và Nguyễn Văn L, thì Q nói với chủ quán là để Q về lấy tiền, còn Nguyễn Văn L và Trương Sỹ T ở lại. Q điều khiển xe đến gặp Trần Xuân L và H1, Q nói với Trần Xuân L mang điện thoại của Trần Xuân L đến quán Karaoke thế chấp cho số tiền còn thiếu, nhưng Trần Xuân L không đồng ý. Q nói với Trần Xuân L và H1 quay lại quán Karaoke M đuổi đánh nhân viên trong quán để cho Nguyễn Văn L, Trương Sỹ T bỏ chạy và quỵt 200.000 đồng còn thiếu. Trần Xuân L và H1 đồng ý.
Sau đó, Lê Xuân Q chở Trần Xuân L và H1 đến bụi rậm gần Khu chung cư I thuộc phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng và chỉ cho H1, Trần Xuân L vào lấy 02 cây mã tấu tự tạo dài khoảng 60 cm do Q cất giữ trước đó. Trần Xuân L và H1 mỗi người cầm 01 cây mã tấu rồi lên xe quay lại quán Karaoke M.
Khoảng 00h ngày 20/01/2015, Lê Xuân Q điều khiển xe đến trước quán Karaoke M rồi dừng lại và ngồi trên xe, còn H1 và Trần Xuân L cầm theo mã tấu xông vào quán. Thấy H1 và Trần Xuân L xông vào, Nguyễn Văn L và Trương Sỹ T bỏ chạy về nhà. Trần Xuân L và H1 cầm mã tấu rượt đuổi các nhân viên trong quán, anh Đinh Đức T, anh Võ Minh T chạy vào nhà vệ sinh, anh Nguyễn Thành H chạy lên tầng 2 đóng cửa lại, còn anh Phan Thanh T là bảo vệ của quán chạy ra ngoài đường trốn. Trần Xuân L đuổi theo đến quầy tính tiền thì dừng lại và phát hiện 02 máy tính bảng hiệu Hanet màu đen để trong ngăn tủ kéo, Trần Xuân L lấy 02 máy tính bảng giấu trong người rồi đi ra, H1 cũng đi ra rồi lên xe do Lê Xuân Q điều khiển tẩu thoát. Trên đường đi, H1 và Trần Xuân L vứt 02 cây mã tấu ven đường Nguyễn Sinh S (không thu hồi được vật chứng). Khi cả ba đến Khu chung cư F, Trần Xuân L đưa ra 02 máy tính bảng và nói lấy tại quán Karaoke M, thì Q đề nghị đem trả lại, nhưng Trần Xuân L nói “Giờ trả lại sợ Công an bắt”, nghe thế, Lê Xuân Q nói “Tôi không liên quan” rồi về nhà ngủ. Sáng hôm sau Lê Xuân Q đem trả xe cho Trần Xuân L rồi bỏ trốn. Đối với 02 máy tính bảng, Trần Xuân L bán cho một người đàn ông không rõ lai lịch được 1.100.000 đồng và tiêu xài hết. Hai máy tính này không thu hồi được.
Tại Kết luận số 33/KL-HĐĐG ngày 28/5/2015 của Hội đồng định giá tài sản thì giá trị còn lại của 02 máy tính bảng hiệu Hanet 10S, đã qua sử dụng là 12.000.000 đồng.
Trong quá trình điều tra, bà Phan Thị C (mẹ của Trần Xuân L) đã bồi thường cho anh Nguyễn Minh T số tiền 7.000.000 đồng. Anh Nguyễn Minh T đã nhận tiền và không yêu cầu bồi thường thêm.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 77/2015/HSST ngày 19/12/2015, TAND quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; các điểm g và n khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt Lê Xuân Q 07 (bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt Trần Xuân L 06 năm tù về tội “Cướp tài sản”, quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo theo luật định
Ngày 21/12/2015, Lê Xuân Q kháng cáo với nội dung cho rằng không phạm tội “Cướp tài sản”. Trần Xuân L kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 78/2016/HSPT ngày 20/4/2016, TAND thành phố Đà Nẵng căn cứ điểm b khoản 2 Điều 248; điểm C khoản 1 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quyết định sửa Bản án sơ thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 314; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Xuân Q 03 (ba) năm tù về tội “Không tố giác tội phạm” (Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn giảm hình phạt cho Trần Xuân L xuống còn 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”).
Tại Quyết định số 26/2017/KN-HS-VC2 ngày 11/4/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy phần hình phạt đối với Lê Xuân Q của Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm để điều tra lại. Tại Quyết định số 61/2017/QĐ-VC2 ngày 27/7/2017, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thay đổi Quyết định kháng nghị số 26/2017/KN-HS-VC2 ngày 11/4/2017 theo hướng đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy phần hình phạt và tội danh đối với Lê Xuân Q tại Bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 38/2017/HS-GĐT ngày 18/9/2017, Ủy ban Thẩm phán TANDcấp cao tại Đà Nẵng quyết định hủy Bản án hình sự phúc thẩm về phần tội danh và hình phạt đối với Lê Xuân Q để xét xử phúc thẩm lại.
Tại Quyết định số 16/2018/KN-HS ngày 22/5/2018, Chánh án TAND tối cao kháng nghị đối với Quyết định giám đốc thẩm số 38/2017/HS- GĐT ngày 18/9/2017 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng và đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm nêu trên và sửa Bản án hình sự phúc thẩm số 78/2016/HSPT ngày 20/4/2016 của TAND thành phố Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự của Lê Xuân Q.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án TAND tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao quyết định hủy Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử giám đốc thẩm lại.
5. Nội dung án lệ
Nội dung án lệ được trích từ đoạn 1 phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định giám đốc thẩm số 20/2018/HS-GĐT ngày 15/10/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về vụ án “Cướp tài sản”, cụ thể như sau:
“[1] … các bị cáo có hành vi dùng vũ lực tấn công bị hại để giải thoát cho đồng bọn, nhằm mục đích không trả số tiền mà bị cáo có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị hại là có đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”.
6. Sự cần thiết của án lệ
Án lệ đã xác định trường hợp Bị cáo có hành vi dùng vũ lực tấn công Bị hại để giải thoát cho đồng bọn nhằm mục đích không trả số tiền mà mình có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị hại sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cướp tài sản. Án lệ phần nào giúp các Thẩm phán có hướng giải quyết thống nhất đối với các trường hợp tương tự, tránh việc cùng thực hiện hành vi tương tự nhau mà mỗi Tòa án lại xử mỗi khác.
7. Trường hợp tương tự áp dụng án lệ
Án lệ cũng được áp dụng trong trường hợp một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được để nhằm mục đích không trả lại số tiền hoặc tài sản khác mà mình có nghĩa vụ phải thực hiện.
Trong quá trình xét xử phải “bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau” (Theo Khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao).