Hiện nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phổ biến của các ứng dụng mạng xã hội như Facebook, Zalo,…Nhiều người lựa chọn cho bạn bè, người thân vay tiền bằng việc trao đổi thông qua các ứng dụng này mà không lập hợp đồng vay bằng văn bản. Trường hợp người vay không trả được nợ hoặc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, người có quyền & lợi ích bị xâm phạm có thể dùng những tin nhắn này làm chứng cứ khởi kiện tại Tòa án không ? Tính pháp lý của các tin nhắn thông qua Facebook, Zalo,.. như thế nào và một số thắc mắc khác của Quý khách hàng sẽ được Luật Phúc Cầu giải đáp qua bài viết sau.
Cơ sở pháp lý
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Luật Giao dịch điện tử năm 2005;
- Luật lưu trữ năm 2011.
1. Chứng cứ là gì?
Theo Điều 93 BLTTDS năm 2015 thì “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
Đối chiếu với quy định trên, chứng cứ cần đáp ứng đủ 03 đặc điểm sau đây:
- Là những gì có thật;
- Được đương sự, cá nhân và cơ quan, tổ chức khác giao nộp, Tòa án thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTDS quy định;
- Được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không.
Đồng thời, theo quy định tại Điều 94 BLTTDS 2015 thì nguồn chứng cứ bao gồm:
“1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.”
Như vậy, chứng cứ được chứa đựng trong nhiều hình thức khác nhau không bắt buộc phải được thể hiện bằng văn bản hay bằng hiện vật cụ thể. Các nguồn chứa đựng chứng cứ được công nhận là chứng cứ có giá trị chứng minh khi nó được thu thập theo trình tự thủ tục mà pháp luật quy định và đáp ứng các điều kiện về nội dung nêu trên.
2. Tin nhắn trên Facebook, Zalo,… có được xem là chứng cứ không?
Như đã phân tích ở trên, để được xem là chứng cứ thì tin nhắn trên facebook, zalo… cần đáp ứng các điều kiện: thứ nhất, là những gì có thật mang tính khách quan, không theo ý chí chủ quan của ai, là những gì diễn ra trên thực tế; thứ hai, được thu thập theo trình tự theo pháp luật quy định; thứ ba, là có ý nghĩa xác định các tình tiết trong vụ án.
Vậy tin nhắn trên facebook, zalo,… được xếp vào nguồn chứng cứ nào?
Theo quy định pháp luật hiện hành, tin nhắn qua Facebook, Zalo,… không được xem là tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, bởi lẽ:
“Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.” (khoản 1 Điều 95 BLTTDS 2015) hay “Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó” (khoản 2 Điều 95 BLTTDS 2015). Tin nhắn trên Facebook, Zalo là dữ liệu trên các thiết bị điện tử nên không thể được xem là bản chính hay bản sao có công chứng, chứng thực, cũng như không thể xuất trình theo dạng thu âm, thu hình. Do vậy, tin nhắn trên Facebook, Zalo phải được xem là dữ liệu điện tử.
Theo Điều 99 BLTTHS 2015 quy định: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”. Đồng thời, “Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền và các nguồn điện tử khác.”.
Đồng thời, khái niệm phương tiện điện tử được quy định tại khoản 10 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005 là “Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự.”(chẳng hạn như laptop, điện thoại,…). Tin nhắn Facebook, Zalo,…hay qua các ứng dụng khác bao gồm các ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh hoặc âm thanh được tạo ra, lưu trữ và truyền đi hay nhận được thông qua các phương tiện điện tử và có thể thu thập được từ phương tiện điện tử (laptop, điện thoại cá nhân của đương sự,…).
Như vậy, căn cứ theo những quy định nêu trên, tin nhắn thông qua Facebook, Zalo,…là một dạng dữ liệu điện tử, đây được coi là nguồn của chứng cứ nếu đáp ứng các điều kiện: đó phải là tin nhắn có thực, thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Ngoài ra Quý khách hàng có thể cung cấp thêm chứng từ, hóa đơn từ phía ngân hàng liên quan đến việc chuyển khoản để tăng thêm độ chính xác, thuyết phục cho chứng cứ.
Qua bài viết trên, Luật Phúc Cầu đã khái quát một số quy định của pháp luật về việc tin nhắn qua Facebook, Zalo có được xem là chứng cứ hay không. Trường hợp cần tư vấn pháp lý về các loại hợp đồng, hỗ trợ soạn đơn khởi kiện hay Luật sư tranh tụng tại Tòa án, Quý khách có thể phản ánh tới địa chỉ pclawfirm.vn@gmail.com hoặc gọi đến Tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
Trân trọng/./