Sau khi phá sản có được thành lập công ty mới?

Phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp nhân) mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Sau khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan có thẩm quyền (thường là Tòa án), doanh nghiệp sẽ mất tư cách pháp nhân. Vậy sau phá sản có được thành lập công ty mới? Bài viết dưới đây của Luật Phúc Cầu sẽ giải đáp thắc mắc trên cho Quý khách hàng:

Cơ sở pháp lý:

  • Luật phá sản năm 2014;
  • Luật doanh nghiệp năm 2020;

Căn cứ khoản Điều 130 Luật phá sản năm 2014 có quy định:

” 1. Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà nước nào kể từ ngày doanh nghiệp 100% vốn nhà nước bị tuyên bố phá sản.

2. Người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở doanh nghiệp có vốn nhà nước mà doanh nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của Nhà nước.

3. Người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản mà cố ý vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 của Luật này thì Thẩm phán xem xét, quyết định về việc không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tácxã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Tòa án nhân dân có quyết định tuyên bố phá sản.

4. Quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này không áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản với lý do bất khả kháng”

Đối chiếu với quy định trên, để xác định doanh nghiệp có bị hạn chế quyền thành lập doanh nghiệp sau khi phá sản thì sẽ có các trường hợp sau đây:

  • Đối với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước: Người giữ chức vụ Chủ tịch, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị không được đảm nhiệm chức vụ tương tự ở bất kì doanh nghiệp nhà nước nào nữa. Tuy nhiên, họ vẫn có thể thành lập doanh nghiệp tư nhân và giữ chức vụ quản lý hay bất kỳ chức vụ nào khác tại doanh nghiệp đó.
  • Đối với doanh nghiệp có phần vốn góp nhà nước: Pháp luật chỉ quy định người đại diện phần vốn góp không được đảm nhiệm các chức vụ quản lí ở bất kì doanh nghiệp vốn nhà nước nào nữa chứ không có quy định không được góp vốn thành lập doanh nghiệp khác. Theo đó, người đó vẫn có thể góp vốn, thành lập doanh nghiệp khác miễn doanh nghiệp đó không có vốn nhà nước.
  • Đối với doanh nghiệp không có vốn nhà nước: Tòa án có thể sẽ xem xét, quyết định doanh nghiệp có được phép thành lập không khi có đủ 2 yếu tố sau:

+ Thứ nhất, người thành lập doanh nghiệp là người giữ chức vụ quản lý doanh nghiệp bị phá sản

Khoản 24, Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2020 quy định: Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp tư nhân và người quản lý công ty, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty.

+ Thứ hai, cố ý có các hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 Luật phá sản, cụ thể:

–  Cố ý thực hiện yêu cầu của Thẩm phán, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và cơ quan thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật về phá sản (khoản 1 Điều 18).

– Cố ý không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (khoản 5 Điều 28).

– Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã cố ý thực hiện các hoạt động sau:

+ Cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản;

+ Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại điểm c khoản 1 Điều 49 của Luật này;

+ Từ bỏ quyền đòi nợ;

+ Chuyển khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.

Như vậy, đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, người thành lập doanh nghiệp có cả hai yếu tố trên sẽ bị Tòa án ra quyết định hạn chế quyền thành lập doanh nghiệp mới trong thời hạn 03 năm kể từ ngày tuyên bố phá sản. Còn nếu chỉ có một trong hai yếu tố thì cá nhân, tổ chức vẫn có thể thành lập doanh nghiệp mới.

Ngoài ra, cũng theo quy định tại khoản 4 điều 130 Luật phá sản, những doanh nghiệp phá sản vì lí do bất khả kháng thì người quản lí doanh nghiệp sẽ không bị hạn chế quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp.

Trên đây là phần tư vấn của Luật Phúc Cầu. Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ website pclawfirm.vn hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 0236.777.3979 Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng./.

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *